Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Tế Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Tế Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2024

Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành bao nhiêu T-Bill thì không ảnh hưởng đến TTCK?

 Mặc dù thị trường ít bị tác động tại hoạt động tín phiếu T-Bill, qua 3 ngày đã hút 45,000 tỷ, lãi suất trung bình 1.4%/năm, nhưng admin cần note vài ý quan trọng. Tham khảo báo cáo mới nhất của BSC
NHNN thực hiện hút ròng trung bình khoảng 9.4 lần trong năm, số ngày trung bình/đợt hút ròng vào khoảng 13.4 ngày.
Giá trị hút ròng trung bình/chu kỳ đạt 47,647 tỷ.
Giá trị hút ròng lớn nhất/chu kỳ là 239,163 tỷ vào năm 2023 (giai đoạn 21/09 – 08/11/2023).
Do đó, 3 ngày vừa qua hút 45,000 tỷ là tương đương con số bình quân. Mức mới chỉ 3 ngày mà đạt con số bình quân thì khả năng còn tăng lên vì mỗi lần hút thường SBV hút trung bình 13 ngày.


Nhưng chú ý thống kê được tô vàng... Năm 2023, có hai nhịp hút bằng T-Bill. Nhịp đầu tiên vào tháng 2-tháng 3, vn-index chỉ giảm nhẹ -5%, và sau đó thị trường có cơn sóng tăng mạnh đến tháng 7.2023-tháng 9.2023. Quy mô nhịp hút này thậm chí lên tới 230,000 tỷ (tháng 2-tháng 3)

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

Báo Financial Times: "Sức mạnh của 1.4 tỷ dân có giúp Trung Quốc thoát khỏi trì tệ"? Câu trả lời là "có thể"

Tương lai kinh tế của Trung Quốc? Bài viết này đề cập đến nhiều vấn đề cụ thể, đáng chú ý là những mất cân bằng vĩ mô dai dẳng của Trung Quốc, mối đe dọa từ sự suy giảm dân số và quan hệ xấu đi với các nước quan trọng trên thế giới, đặc biệt là nước Mỹ ngày càng thù địch. Nhưng ẩn dưới tất cả những điều này là một câu hỏi sâu sắc hơn: liệu "chủ nghĩa cộng sản tư bản", phát minh có vẻ tự mâu thuẫn của Đặng Tiểu Bình, có đang dần phai nhạt dưới thời Tập Cận Bình? Liệu chế độ của Trung Quốc có bị tê cứng và cuối cùng sẽ sụp đổ giống như Liên Xô?


Cuốn sách "China's World View" của David Daokui Li, một giáo sư kinh tế uy tín được đào tạo tại Harvard và hiện đang giảng dạy tại Đại học Tsinghua, cung cấp nhiều thông tin hữu ích về vấn đề này. Cuốn sách đáng giá này nên được những người quan tâm đến Trung Quốc, bất kể là diều hâu hay bồ câu, đọc kỹ.

Theo quan điểm có lẽ gây sốc nhất của tác giả Li, "từ năm 980 đến năm 1840, thời kỳ đầu của lịch sử hiện đại Trung Quốc", thu nhập bình quân đầu người đã giảm. Trung Quốc thời cổ đại rơi vào cái bẫy Malthus. Bức tranh này thậm chí còn tồi tệ hơn so với bức tranh được thể hiện trong tác phẩm của Angus Maddison quá cố. Ngay cả sau năm 1840, thực tế ảm đạm này cũng không sáng sủa hơn nhiều. Chỉ cho đến khi "cải cách và mở cửa" của Đặng Tiểu Bình thì mọi thứ mới thay đổi. (Xem biểu đồ)

Bằng việc giải phóng nền kinh tế tư nhân, dựa vào lực lượng thị trường và mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, Đặng Tiểu Bình đã tạo ra những điều kiện cho một sự chuyển đổi phi thường. Tuy nhiên, bằng cách đàn áp các yêu cầu về dân chủ tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, ông cũng củng cố sự kiểm soát của đảng cộng sản. Ông đã phát minh ra một nền kinh tế chính trị mới: Trung Quốc ngày nay là kết quả.

Liệu nó có bền vững? Cuốn sách của Li đưa ra câu trả lời rõ ràng là "có". Về bản chất, ông cho rằng hệ thống chính trị của Trung Quốc không nên được nhìn nhận theo kiểu Liên Xô, mà là một hình thức hiện đại hóa của nhà nước đế quốc truyền thống Trung Quốc. Nhà nước này mang tính phụ quyền. Nó chịu trách nhiệm cho người dân, nhưng không chịu trách nhiệm với họ, ngoại trừ theo một cách cơ bản: nếu mất đi sự ủng hộ của quần chúng, nó sẽ bị lật đổ. Nhiệm vụ của nó là mang lại sự ổn định và thịnh vượng. Nhưng để làm được điều đó, nó không cố gắng điều hành mọi thứ từ trung tâm: nó phân quyền xuống các cấp địa phương. Đảng cộng sản, theo ông, về cơ bản nên được coi là đảng quốc gia của Trung Quốc.

Từ góc độ này, chế độ Tập Cận Bình không đại diện cho việc từ bỏ các mục tiêu của thời kỳ Đặng Tiểu Bình, mà là một nỗ lực để khắc phục một số vấn đề do việc phụ thuộc vào "chủ nghĩa tư bản chạy đua" (tăng trưởng nhanh) tạo ra, cụ thể là tham nhũng tràn lan, bất bình đẳng gia tăng chóng mặt và thiệt hại môi trường. Các vấn đề cũng bao gồm những lời chỉ trích của giới tài phiệt mới, đáng chú ý là Jack Ma của Alibaba, về các lĩnh vực được bảo vệ trong chính sách và chính trị. Giới chức Trung Quốc cũng quan ngại về các độc quyền nền tảng và sự bất ổn của lĩnh vực tài chính, giống như các nước phương Tây. Trên hết, Li cho rằng, phát triển kinh tế vẫn là mục tiêu cơ bản. Chỉ là bây giờ cũng có những mục tiêu khác, đáng chú ý là tăng cường kiểm soát của đảng, phúc lợi xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.

Thời kỳ Đặng Tiểu Bình thực sự đã để lại nhiều thách thức. Một phần nguyên nhân thuộc về sự thụ động tương đối của thời kỳ Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Nhưng phần lớn là do xu hướng tham nhũng vốn có của một nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào sự tùy ý của chính quyền. Tuy nhiên, xu hướng tập trung quyền ra quyết định của Tập Cận Bình rõ ràng không cải thiện vấn đề. Nó có nguy cơ tạo ra tình trạng tê liệt hoặc phản ứng thái quá: ví dụ như không thể chuyển dịch đủ nhanh khỏi sự phụ thuộc vào bất động sản là một ví dụ cho trường hợp trước; không nới lỏng phong tỏa Covid kịp thời là một ví dụ cho trường hợp sau. Quản lý một nền kinh tế do chính trị chi phối với nhiều mục tiêu phức tạp hơn nhiều so với nền kinh tế chỉ có mục tiêu tăng trưởng. Những chính sách quyết đoán của Tập Cận Bình cũng khiến quan hệ với các nhà hoạch định chính sách phương Tây thêm xấu đi.

Vậy thì hoàn toàn có thể coi những gì đang diễn ra phần lớn là một nỗ lực để giải quyết những di sản khó khăn của thời kỳ Đặng Tiểu Bình trong một môi trường thế giới phức tạp hơn nhiều. Cũng có thể cho rằng việc Tập Cận Bình tái khẳng định sự kiểm soát của đảng là hoàn toàn hợp lý. Phương án thay thế là hướng tới một hệ thống pháp lý độc lập, với quyền sở hữu được củng cố và một hệ thống chính trị dân chủ hơn là quá rủi ro. Ở một đất nước rộng lớn như Trung Quốc, nó có thể tạo ra hỗn loạn. Lựa chọn bảo thủ của Tập Cận Bình có vẻ an toàn hơn nhiều ngay cả khi nó có thể giết chết con ngỗng vàng đang đẻ những quả trứng vàng của nền kinh tế. Nhưng nó trông an toàn hơn rất nhiều.

Khi xem xét triển vọng của Trung Quốc, người ta không nên chỉ tập trung vào danh sách các vấn đề hiển nhiên - giá bất động sản giảm, nợ nần quá nhiều, tiết kiệm dư thừa, dân số già hóa và sự thù địch của phương Tây. Tất cả những điều này có thể được giải quyết bởi một quốc gia với nguồn nhân lực và tiềm năng tăng trưởng như Trung Quốc.

Vấn đề lớn hơn là liệu trong kỷ nguyên tập trung, thận trọng và bảo thủ của Tập Cận Bình, bước chuyển mình từ trì trệ sang tăng trưởng bùng nổ của Đặng Tiểu Bình có nhất định sẽ quay trở lại thành trì trệ. Nếu người dân tin rằng sự năng động của thời gian gần đây đã bị mất đi vĩnh viễn, thì sẽ có nguy cơ rơi vào vòng xoáy đi xuống của những hy vọng thất vọng. Nhưng sức mạnh của 1.4 tỷ người mong muốn cuộc sống tốt đẹp hơn là vô cùng mạnh mẽ. Liệu có gì được phép ngăn chặn nó? Câu trả lời, tôi nghi ngờ, vẫn là "không".







Thứ Năm, 28 tháng 12, 2023

Ueda đã đúng khi tăng mục tiêu lạm phát của Nhật Bản (BOJ) từ 0% lên 2%


(Nguồn: The Money Illustion): Tại sao tôi ủng hộ việc Nhật Bản tăng mục tiêu lạm phát từ 0% lên 2%?

Một số người đã hỏi tại sao tôi lại ủng hộ quyết định của Nhật Bản tăng mục tiêu lạm phát từ 0% lên 2%. Xét cho cùng, về lâu dài, tiền tệ gần như trung tính và đến năm 2013, Nhật Bản hầu như đã điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát gần bằng 0 của họ.




Tôi đã đưa ra một vài lập luận. Ngân hàng trung ương có xu hướng sử dụng lãi suất làm công cụ chính sách, và điều này sẽ hiệu quả hơn nếu lãi suất danh nghĩa không bị kẹt ở mức 0%. Ngoài ra, lãi suất thực cân bằng của Nhật Bản rất thấp đến mức hiệu ứng Fisher không hoạt động hoàn toàn. Tăng lạm phát từ 0% lên 2% có thể chỉ khiến lãi suất danh nghĩa tăng từ 0% lên 1%, thậm chí ít hơn. Điều này sẽ giúp ích cho tài chính công. Tỷ lệ lạm phát 2% cũng sẽ dẫn đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng trung ương nhỏ hơn.

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2015

Nỗi lo trái phiếu ế

Link bài đăng trên báo Đầu Tư Tài Chính 

Link trích dẫn của Cafef

Bài gốc gửi toàn soạn trước khi bị biên tập lại

Có phải lãi suất đã chạm đáy?

Theo Bloomberg, Việt Nam chỉ bán được một nửa số trái phiếu tại các phiên đấu giá trong 3 quý năm 2015. Theo đó, Kho Bạc Nhà nước chỉ bán được khoảng 4.3 tỷ USD (96,470 tỷ đồng) trái phiếu, tương đương 38% mục tiêu cả năm (250,000 tỷ đồng).  Tình trạng ế ẩm trong các phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ (TPCP) đã xuất hiện từ đầu quý 2.2015. Để giải quyết tình trạng này, Kho bạc nhà nước đã tăng lãi suất trúng thầu từ 5.45%/năm lên 6.4%/năm ở trái phiếu kỳ hạn 5 năm. Tính đến thời điểm hiện nay, lợi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam kỳ hạn 5 năm đang giao dịch ở mức 6.7%/năm theo dữ liệu của Bloomberg.

Tình trạng ế ẩm của thị trường TPCP có thể là do sự tác động của Thông tư 36 yêu cầu tỷ lệ đầu tư  vào TPCP so với nguồn vốn ngắn hạn của các ngân hàng thương mại cổ phần chỉ là 35%. Tuy nhiên, một nguyên nhân khác là mức lãi suất của TPCP vẫn còn thấp và không đủ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nên tình trạng ế ẩm tiếp tục diễn ra rõ rệt trong quý 2 và quý 3.2015.

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

[TẢN MẠN] SEX, THỜI TRANG, ÂM NHẠC & CHỨNG KHOÁN

Nhiều người tin rằng những chuyển động trên thị trường chứng khoán được gây ra bởi những biến cố hoặc sự kiện kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, giá chứng khoán còn phụ thuộc và phản ánh các hiện tượng tâm lý xã hội. Đây là mối quan hệ hai chiều. Giá chứng khoán dự báo sự kiện xã hội trong tương lai nhưng đồng thời, các xu hướng văn hóa xã hội sẽ dự báo giá chứng khoán tương lai.

Bạn có thể nhìn thấy mối liên hệ sau:

- Nghệ thuật, thời trang, âm nhạc, ẩm thực, phim ảnh… chi phối tâm lý công chúng.

- Thị trường chứng khoán thay đổi là do tâm lý của công chúng. Điều này cho thấy có sự liên quan giữa văn hóa xã hội và thị trường chứng khoán bởi đều sản phẩm của tâm lý đám đông.

- Những thay đổi tâm lý tích cực hoặc tiêu cực trong tâm lý xã hội sẽ dự báo trước những sự kiện lịch sử quan trọng.

Ý tưởng liên kết giữa văn hóa xã hội (hoặc tâm lý xã hội) với giá cả thị trường chứng khoán được đưa ra vào những năm 1980. Robert Prechter, biên tập của công ty Elliott wave nổi tiếng là người tiên phong trong lĩnh vực mới mẻ này.

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

Phần II: Việt Nam mong manh trong một thế giới bất ổn

Sáng nay, báo có trích đăng tóm lược tại http://www.saigondautu.com.vn/Pages/20130527/Go-kho-tu-noi-cong-ngoai-kich.aspx

Ảnh hưởng của chiến tranh tiền tệ

Việt Nam không phải ngoại lệ trong cuộc chiến tranh tiền tệ được khởi động từ năm 2010. Là một trong những quốc gia đầu tiên nhen nhóm lạm phát từ cuối năm 2009, Việt Nam chịu ảnh hưởng ngay lập tức gói QE1 của Mỹ. Lạm phát Việt Nam sau đó tăng tốc từ tháng 5.2010 (gần thời điểm Mỹ thực hiện QE2) và đạt mức đỉnh gần 23% (y-o-y) vào tháng 8.2011[1] chủ yếu vì sự tăng nóng của giá thực phẩm và giá xăng, dầu. So sánh số liệu toàn cầu, lạm phát Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới và đứng số 1 Châu Á[2].

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012


(Kỳ 2)Những vấn đề cần lưu ý khi thành lập công ty mua bán nợ

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu Ngân Hàng của Trung Quốc

Trung Quốc là một quốc gia có nhiều đặc điểm kinh tế và vấn đề trong hệ thống ngân hàng mà Việt Nam đang gặp phải hiện nay. Do đó, những kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Trung Quốc trong giai đoạn 1999-2000 sẽ là những bài học bổ ích cho Việt Nam.

Cũng giống như Việt Nam, nợ xấu của Trung Quốc tập trung vào 4 ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất do các ngân hàng này là nguồn lực chủ yếu để tài trợ cho các doanh nghiệp nhà nước. Vào những năm 1990, 4 ngân hàng thương mại nhà nước, được gọi là “Big Four” là Ngân hàng Trung Quốc (The Bank of China-BOC), Ngân hàng Công Thương Trung Quốc (Industrial and Commercial Bank of China-ICBC); Ngân hàng Xây Dựng Trung Quốc (Construction Bank of China-CCB) và Ngân hàng Nông Nghiệp Trung Quốc (Agricultural Bank of China-ABC) chịu tránh nhiệm chính trong việc cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước (SOEs). Big Four chiếm 65% hoạt động ngân hàng của Trung Quốc tại thời điểm đó.

Theo Ngân hàng thanh toán Quốc tế (BIS), nợ xấu (NPL) của Trung Quốc ước tính vào khoảng 3,200 tỷ NDT vào thời điểm năm 2001. Bằng cách thành lập ra các công ty mua bán nợ là “Công ty quản lý tài sản-(AMC: Asset Management Corporations), Trung Quốc đã xử lý được khoảng 1,400 tỷ NDT nợ xấu trên bảng cân đối của Big Four, chiếm 20.8% dư nợ tín dụng vào thời điểm 1998. Mô hình xử lý nợ xấu ngân hàng của Trung Quốc như sau:

Bộ Tài Chính đã lập ra 4 AMC để mua lại nợ xấu cho Big Four. Mỗi AMC có vốn chủ sở hữu trị giá 10 tỷ NDT. Cơ cấu vốn của AMC gồm có 4 nguồn chính: Nguồn thứ nhất là vốn chủ sở hữu (Bộ Tài Chính góp vốn), do đó đây là khoản tiền mặt; Nguồn thứ hai là khoản vay nợ từ các định chế tài chính khác (do đó đây cũng là tiền mặt nguồn thứ ba là vay tiền từ Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) bằng cách phát hành các IOUs. Và nguồn thứ tư là các AMC phát hành trái phiếu kỳ hạn 10 năm. Thực tế vào thời điểm 2000, các AMC không vay được nợ từ các định chế khác. Các AMC được PBoC cấp cho khoản vay trị giá 208 tỷ NDT. Như vậy, tổng tiền mặt mà các AMC có chỉ là 208 tỷ NDT + 4*10 tỷ NDT=248 tỷ NDT. Quá trình xử lý nợ xấu như sau. Big Four sẽ chuyển giao 14,000 tỷ NDT nợ xấu cho các AMC. Các AMC sẽ chuyển giao lại cho Big Four 248 tỷ NDT cộng với số trái phiếu kỳ hạn 10 năm. Như vậy, cần lưu ý ở đây là không phải các AMC phát hành trái phiếu cho các tổ chức tài chính khác để huy động vốn mà là chính các ngân hàng thương mại nợ xấu sẽ là chủ nợ các trái phiếu đó. Lúc này, trên bảng cân đối của Big Four nợ xấu sẽ không còn. Thay vào đó, họ nhận được một khoảng tiền mặt trị giá 248 tỷ NDT và trở thành chủ nợ của AMC. Vì vậy, bảng cân đối tài sản của các ngân hàng đã được làm sạch đi rất nhiều (vì chỉ xử lý được ½ số nợ xấu của Big Four). Còn trên bảng cân đối tài sản của ACMS, họ sẽ nhận về các khỏa nợ xấu. Qua mô hình xử lý nợ xấu của Trung Quốc, chúng ta thấy, hơn 80% nợ xấu (trong tổng cộng 14,000 tỷ NDT nợ xấu được xử lý) là trái phiếu của AMC. Để các trái phiếu của các AMC trở nên có giá trị pháp lý và có độ tin cậy, PBoC đứng ra bảo lãnh toàn bộ cho số trái phiếu đó. Ưu điểm trong mô hình xử lý nợ xấu của Trung Quốc là không làm phát sinh nhiều chi phí để xử lý nợ xấu vì thực chất chỉ có 248 tỷ NDT tiền mặt được bơm ra để xử lý cho 14,000 tỷ NDT. Điều này sẽ làm giảm số tiền được bơm ra nhằm hạn chế tối thiểu ảnh hưởng đến lạm phát. Thứ hai, Trung Quốc trung hòa số tiền được bơm ra bằng cách yêu cầu các Big Four dùng số tiền mặt nhận được “nộp” vào quỹ dự trữ tại PBoC (tức tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc). Do đó, không phải ngẫu nhiên mà từ sau năm 2000, dự trữ của các ngân hàng tại PBOC tăng cao đột biến (từ 300 tỷ NDT vào năm 1999 lên trên hơn 1,000 tỷ NDT vào năm 2001). Ngày nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Trung Quốc thuộc loại cao nhất trên thế giới cũng là vì lý do này.

Tuy nhiên, mô hình này vẫn còn tồn tại nhược điểm thông qua các ACMs. Vì hàng năm các ACM phải trả lãi cho các trái phiếu mà họ phát hành nên đặc biệt là trong 2-3 năm đầu hoạt động, các ACM không còn tiền mặt để chi trả. Nhiều chuyên gia phân tích ngân hàng tại Trung Quốc cho rằng, PBoC sau đó đã tăng các khoản cho vay cho các ACM để các ACM có tiền trả lãi. Như vậy, thực chất trong mô hình xử lý nợ xấu của Trung Quốc, ngoài số tiền được chuyển giao lúc đầu thì hàng năm còn phát sinh thêm dòng tiền trả lãi. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lạm phát nếu như PboC không cân đối được dòng tiền hút vào thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Vì thông tin về các ACM là không minh bạch nên không ai biết được Ngân Hàng Trung Ương bơm ra bao nhiêu tiền cho các ACM.

H1- Mô hình xử lý nợ xấu của Trung Quốc

Các AMC sau khi mua nợ sẽ được quyền thanh lý tài sản để xử lý nợ. Tuy nhiên, một điểm nổi bật là các AMC có quyền chuyển đổi nợ thành vốn cổ phần. Sở dĩ AMC có thể làm được điều này vì đối tượng vay nợ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần nhằm duy trì quyền kiểm soát của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.

Những bài học rút ra cho Việt Nam

Thứ nhất, Trung Quốc xử lý nợ xấu chỉ đối với Big Four, là những ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước. Giới phân tích quốc tế về Trung Quốc cho rằng, thực chất chương trình giải cứu nợ xấu là để cứu các doanh nghiệp nhà nước. Vì các Big Four trong khi được mua nợ sẽ có tiền để lại tiếp tục cho các doanh nghiệp vay nợ. Đồng thời các AMCs sẽ hoán đối nợ thành vốn cổ phần ở một số doanh nghiệp để đảm bảo quyền sở hữu của nhà nước và giảm đòn bẩy nợ của các doanh nghiệp. Có thể thấy rằng, Việt Nam có sự tương đồng. Phần lớn nợ tại các ngân hàng thương mại nhà nước là các DNNN. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng DNNN vẫn là thành phần kinh tế trụ cột vì nó đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu như cơ sở hạ tầng, năng lượng, vận tải…Trong khi đó, dư nợ tại các ngân hàng thương mại tư nhân chủ yếu là của cổ đông lớn và những người có liên quan. Vì vậy, xử lý nợ xấu cho các ngân hàng thương mại không thuộc nhà nước chưa chắc đã hỗ trợ cho nền kinh tế. Trái lại, vô tình làm lợi cho các nhóm lợi ích trong ngành ngân hàng.

Việt Nam có thể thực hiện bằng hình thức linh hoạt hơn là nới rộng xử lý nợ xấu cho những ngân hàng có tỷ trọng dư nợ cao đối với lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xã hội.

Thứ hai, có thể học hỏi mô hình xử lý nợ xấu ngân hàng của Trung Quốc. Trong đó, NHNN đứng ra bảo lãnh cho các trái phiếu do các công ty mua bán nợ phát hành cho các ngân hàng được xử lý nợ xấu. Sau đó, thông qua công cụ dự trữ bắt buộc để trung hòa bớt dòng tiền tại các NHTM. Tuy nhiên, nên rút kinh nghiệm ở chỗ phải minh bạch hóa hoạt động tại các công ty mua bán nợ. Thực tiễn của Trung Quốc cho thấy, việc mua bán xử lý nợ xấu luôn gắn với quá trình in tiền. Nên minh bạch hóa hoạt động của công ty mua bán nợ, đặc biệt là vấn đề cho vay các công ty mua bán nợ, để quá trình điều hành tiền tệ được chính xác.

(Hết)

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012


Chủ đề: Xử lý nợ xấu của ngân hàng

Kỳ 1: Tại sao phải xử lý nợ xấu của các ngân hàng?

LTS-Vào cuối tuần trước, cuộc họp G14 đưa ra đề xuất lập công ty mua bán nợ trị giá 100,000 tỷ đồng để xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Nhưng liệu có hợp lý?

Bất hợp lý khi cứu

Ngành ngân hàng  đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, giống như mạch máu trong cơ thể, vì đây là nơi cung cấp nguồn vốn. Do đó, khi hệ thống ngân hàng rơi vào khủng hoảng, các chính phủ và ngân hàng trung ương thường phải “giải cứu” các ngân hàng. Nợ xấu là một trong những nguyên nhân khiến cho các ngân hàng có nguy cơ sụp đổ. Một trong những giải pháp thường được thực hiện là thành lập công ty mua bán nợ nhằm làm sạch bảng cân đối tài khoản của các ngân hàng. Thực tiễn cho thấy, Trung Quốc đã lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu vào năm 1999-2000; các nước như Thái Lan, Hàn Quốc cũng lập công ty mua bán nợ để xử lý nợ xấu được gây ra bởi cuộc khủng hoảng năm 1997; Nhật Bản cũng lập công ty mua bán nợ để xử lý hệ quả nợ xấu sau cuộc đổ vỡ bong bóng bất động sản vào những năm 1990. Do đó, việc Việt Nam thành lập công ty mua bán nợ xấu là một giải pháp hợp lý.