Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2016

SỨC ÉP PHÁ GIÁ LÊN VND ĐANG TĂNG LÊN.

Đường link trên báo Đầu Tư Tài Chính (trang 3)

LTS- Sau một loạt biến cố “Thiên Nga Đen” liên tiếp như Brexit, Bầu Cử Tổng Thống Mỹ, Samsung Galaxy Note 7 bị nổ và thu hồi, và gần đây là sự sụt giảm mạnh của đồng NDT, nền kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc thu hút dòng vốn FDI và xuất khẩu. Tác động riêng lẽ của mỗi sự kiện là không lớn nhưng tổng lực tác động của nhiều sự kiện đang tạo ra sức ép phá giá ngày càng một lớn đối với VND. Việc tỷ giá tăng mạnh trong thời gian gần đây và vượt mức 22,600 VND/USD phản ánh sự tác động của nhiều áp lực.



Phải chăng Việt Nam bắt đầu ngấm đòn ảnh hưởng Brexit và Bầu Cử Tổng Thống Mỹ?


Vào ngày xảy ra sự kiện Brexit, hãng tin Bloomberg và Financial Times cho rằng Việt nam là quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong 12 nền kinh tế tăng trưởng mạnh nhất ở khu vực Châu Á. Việt Nam, theo sau là Campuchia và Hongkong là 3 quốc gia có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào Anh Quốc/GDP cao nhất nên là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp. Hãng tin Bloomberg cho rằng, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang EU chiếm 6%-7% GDP, xuất khẩu sang Anh chiếm 2.5% GDP sẽ chịu tổn thương khi Anh rời khỏi EU và gây ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Đây là một trong những nhận định gây tranh cãi, nhất là từ phía các chuyên gia kinh tế của Việt Nam vì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Anh chỉ là 4.6 tỷ USD. Ngay cả khi bù khoản lỗ 10% do đồng Bảng Anh mất giá, thì khoản lỗ chỉ là 460 triệu USD.

Hình 1: Bloomberg từng đánh giá Việt Nam  là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh nhất bởi sự kiện Brexit.

Hình 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào Anh Quốc (% GDP)

Trong khi đó, việc cả hai ứng cử viên Tổng Thống Mỹ là Donald Trump và Hillary Clinton cùng tỏ thái độ phản đối với hiệp định TPP khiến dòng vốn FDI vào Việt Nam có dấu hiệu chững lại từ đầu năm 2016. Sự việc càng trở nên tồi tệ hơn khi Donald Trump đắc cử Tổng Thống Mỹ vào ngày 8.11.2016 và đe dọa hủy bỏ hiệp định. Tổng Thống Donald Trump đang gieo rắc bóng ma bảo hộ thương mại lên toàn cầu và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế của các quốc gia có mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu như Việt Nam.

5 tháng trôi qua kể từ Brexit và kết quả bầu cử Tổng Thống Mỹ vừa ngã ngũ, đây là lúc chúng ta nhìn thấy rõ hơn tác động của các sự kiện kinh tế từ bên ngoài đến Việt Nam khi quan sát các dữ liệu được công bố.

-         Sự sụt giảm trong dòng vốn FDI sau Brexit:

Sau 10 tháng đầu năm 2016, Việt Nam thu hút được 17.6 tỷ FDI đăng kí và giải ngân được 12.7 tỷ, tăng 7.6% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, có dấu hiệu chững lại của dòng vốn FDI sau sự kiện Brexit. Trong 6 tháng đầu năm 2016, nguồn vốn FDI thu hút được trong từng tháng đều tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái, và có lượng vốn đăng kí đạt 11.28 tỷ USD (tăng gấp đôi so với cùng kỳ), vốn giải ngân là 7.26 tỷ USD (tăng 15.1% so với cùng kỳ), thì các tháng sau sự kiện Brexit thì có chiều hướng tăng chậm lại. Đáng chú ý, vốn FDI cam kết trong tháng 9 và tháng 10 bỗng sụt giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong tháng 9 và tháng 10, cả nước ước thu hút được lần lượt hơn 2.13 tỉ USD và 1.18 tỷ, tương ứng giảm 4.2% và 8.7% so với cùng kỳ năm 2015. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn FDI bị sụt giảm cả ở vốn mới lẫn vốn tăng thêm. Trong 10 tháng đầu năm, ngoài dự án đầu tư của LG Display có vốn đăng ký 1.5 tỷ USD ở Hải Phòng, không có dự án nào có quy mô lớn như năm 2015.

Sự sụt giảm trong dòng vốn FDI đáng chú ý là ở lĩnh vưc dệt may, cũng là ngành hàng  xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được cho là sẽ hưởng lợi lớn nhờ TPP, bị sụt giảm mạnh về dòng vốn FDI. Năm 2014 và 2015, dòng vốn FDI vào lĩnh vực này bùng nổ để đón đầu hiệp định TPP. Riêng năm 2015, Việt Nam thu hút được hơn 4 tỷ USD (chiếm hơn 76% FDI đăng kí mới) vào lĩnh vực dệt may với các dự án có quy mô lớn như Hyosung Đồng Nai (quy mô 660 triệu USD), Folytex Far Eastern (274 triệu USD)… Nhưng từ đầu năm đến nay, hoạt động đầu tư FDI vào dệt may gần như im ắng và không có dự án lớn nào.

-         Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như điện thoại, dệt may và máy vi tính đồng loạt gặp khó vì tỷ giá và TPP

“Họa vô đơn chí”, sự kiện điện thoại Galaxy Note 7 của Samsung bị nổ và thu hồi từ tháng 9 đang tạo ra ảnh hưởng xấu đến lĩnh vực xuất khẩu điện thoại, là mảng xuất khẩu số 1 của Việt Nam hiện nay. Năm 2015, lĩnh vực xuất khẩu điện thọai và linh kiện của Việt Nam đạt tới 30.6 tỷ USD, chiếm gần 19% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trong đó, đóng góp chủ lực là Samsung). Trong 10 tháng đầu năm 2016, nhóm mặt hàng điện thoại và linh kiện đóng góp nhiều nhất với 28.3 tỉ đô la Mỹ (tăng 10.3% so với cùng kỳ năm ngoái), chiếm tỷ lệ 19.6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 144.1 tỉ đô la Mỹ ( tăng 7.2% so với cùng kỳ năm trước). Sự cố Galaxy Note 7 không ảnh hưởng nhiều đến hiện tại nhưng sẽ khiến cho Việt Nam mất đi tiền năng xuất khẩu trong năm 2017. Thậm chí, theo đánh giá của Bloomberg[1], sự cố Galaxy Note 7 sẽ làm tổn hại đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam ngay cả trong năm 2016. Trong chiều hướng ngược lại, kim ngạch nhập khẩu điện thoại có thể tăng lên do sản phẩm Iphone 7 của Apple, sẽ được nhà tiêu dùng lựa chọn thay thế cho Galaxy Note 7, và điều này sẽ gây tác động xấu đến cán cân thương mai.

Đây là tác động bất lợi và cộng dồn thêm nhiều khó khăn hơn sau sự kiện Brexit. Sự kiện Brexit đã làm tổn thương mảng xuất khẩu điện thoại, vốn là sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam vào Anh Quốc (hơn 1.6 tỷ USD vào năm 2015), chiếm tới 30% tổng kim ngạch xuất khẩu vào Anh Quốc. Việc đồng bảng Anh mất giá tới 18% so với đồng USD sau Brexit khiến Việt Nam mất lợi thế xuất khẩu.

Ngành dệt may, sản phẩm chủ lực thứ hai của Việt Nam cũng cho thấy sự sụt giảm. Năm 2015, dệt may của Việt Nam xuất khẩu khoảng 27 tỷ USD, đóng góp 14% vào tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, 9 tháng đầu năm 2016 chỉ xuất khẩu được gần 18 tỷ USD, tăng gần 5% so với cùng kỳ năm ngoái và gần như khó đạt nổi mục tiêu 31 tỷ USD đặt ra hồi đầu năm. Khó khăn bắt nguồn từ tổng cầu trong 6 tháng đầu năm 2016 của thế giới sụt giảm. Việc TPP bị hoãn sẽ là đòn giáng mạnh lên xuất khẩu dệt may vì cơ hội giảm thuế suất về 0% không còn. Trong khi đó ,các nước như Lào và Myanmar đã hút lấy đơn hàng của Việt Nam vì thuế suất vào thị trường Mỹ thấp hơn. Việc Donald Trump đắc cử Tổng Thống và tạo ra khả năng bảo hộ mậu dịch lớn hơn sẽ đe dọa đến ngày dệt may của Việt Nam.

Sản phẩm máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ ba (chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu) của Việt Nam lại có hai thị trường chính là EU và Trung Quốc thì đồng Euro và NDT đang mất giá dữ dội so với USD. Đồng Euro đã giảm 7% so với đồng USD từ sự kiện Brexit (giảm 3% từ đầu năm) và đang hướng tới mức 1 đổi 1 với đồng USD. Trong khi đó, đồng NDT cũng giảm đến gần 6% so với đồng USD. Điều này khiến lợi thế cạnh tranh của Việt Nam giảm sút. Tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này trong 10 tháng đầu năm 2016 ước đạt 14.79 tỷ USD, tăng khoảng 14% so với cùng kỳ. Nếu so với con số tăng trưởng hơn 50% của cùng kỳ năm 2015 thì đó là bước thụt lùi. Ngoài ra, mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện lại có tỷ lệ nội địa hóa thấp (30%-35%) và phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu đến từ Hàn Quốc và Trung Quốc nên việc đẩy mạnh lĩnh vực này cũng kéo theo nhập khẩu tăng. Cụ thể, 10 tháng đầu năm nay nhập khẩu của lĩnh vực này là 22,7 tỷ USD, tạo ra nhập siêu với trị giá 7.91 tỷ USD.

Tính chung 10 tháng năm 2016 Việt Nam xuất khẩu 144 tỷ USD, tăng 7.2% so với năm 2015 và hiện đang xuất siêu 3.52 tỉ đô la Mỹ. Tuy nhiên, tăng trưởng đến từ sự phục hồi của những mặt hàng nông thủy sản (như café, tiêu) trong khi top 3 các sản phẩm chủ lực đang gặp khó khăn. Vì vậy, kết quả xuất khẩu của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm nhìn chung chưa đạt được kỳ vọng và khả năng khó đạt mục tiêu 181 tỷ kim ngạch xuất khẩu năm 2016.

Phân tích trên cho thấy tác động của mỗi sự kiện có thể không đáng kể nhưng hiện nay tổng áp lực của nhiều sự kiện liên tiếp đang gây ra nhiều áp lực cho Việt Nam trong xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI.  Thậm chí, giới chuyên gia Việt Nam có đã đánh giá thấp tác động của Brexit đến Việt Nam vì nó không đơn thuần nằm ở mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Anh Quốc mà là tác động lan tỏa của nó đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, cụ thể là khu vực kinh tế Eurozone. Theo Financial Times vào ngày 9.11.2016, Ủy Ban Châu Âu (EC) đã hạ dự báo tăng trưởng của nền kinh tế khu vực Eurozone và Anh Quốc vào năm 2017 lần lượt xuống còn 1.5% (so với 1.7% trong dự báo trước) và 1% (giảm mạnh so với mức dự kiến 1.9% của năm 2016) do ảnh hưởn của Brexit và bầu cử ở Mỹ. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vào EU ở mức 6%-7% GDP rõ ràng sẽ bị ảnh hưởng.

Hình 3:  Tăng trưởng kinh tế của Anh Quốc và Eurozone
vào năm 2017 dự kiến sẽ giảm do Brexit và bầu cử Tổng Thống Mỹ

Sự sụt giảm trong dòng vốn FDI và xuất khẩu đã ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2016. Ước tính của viện VEPR, khả năng tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2016 chỉ ở mức 6%-6.3%, thấp hơn so với mục tiêu 6.5%-6.7%. Các áp lực này đang tạo kỳ vọng Việt Nam phải phá giá VND giải tỏa áp lực.

Nỗi lo khủng hoảng từ “người láng giềng” Trung Quốc và ảnh hưởng đến Việt Nam.

Việc Tổng Thống Donald Trump đắc cử đang tạo ra các sức ép lên thị trường tiền tệ thế giới. Chỉ số USD Index đã tăng hơn 5% kể từ Brexit (và 2.6% từ đầu năm) và mạnh hơn sau bầu cử Mỹ do giới đầu tư e ngại các chính sách rủi ro của Donald Trump. Đồng NDT nhanh chóng giảm giá mạnh mới mức thấp kỷ lục từ cuộc khủng hoảng năm 2008 là 6.8950 NDT đổi 1 USD do Tổng Thống Donald Trump có thể áp đạt mức thuế bảo hộ 45% lên hàng hóa của Trung Quốc. Kịch bản chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ được dấy lên Donald Trump khiến Bắc Kinh lo ngại sự tháo chạy của dồng vốn như đã từng xảy ra từ giữa năm 2015 đến đầu năm 2016. Điều này được xác nhận bởi phát biểu của chủ tịch Tập Cận Bình theo trích dẫn của Business Insider vào ngày 18.11.2016. Theo Business Insider, ngân hàng PBoC có thể sẽ phải can thiệp để chống bị tấn công tiền tệ nếu tỷ giá chạm đến ngưỡng tâm lý 7 NDT đổi 1 USD. Theo một số nhà kinh tế, nếu không có sự can thiệp, tỷ giá đồng NDT/USD có thể giảm đén 7.2 vào cuối năm 2017, tức giảm thêm 4.2% so với hiện tại.

Nhưng thực ra, sự mất giá của đồng NDT bắt nguồn từ tình trạng bong bóng của nền kinh tế Trung Quốc. Từ tháng 3.2015, Trung Quốc đã tung ra các gói kích cầu, mở rộng tăng trưởng M2 và tín dụng quá mức dẫn đến tình trạng chênh lệch ngày càng lớn giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng M2. Đến tháng 3.2016, tăng trưởng tín dụng của Trung Quốc là 25.4% trong khi tăng trưởng M2 chỉ ở mức 13.5%, tạo ra mức chênh lệch gần 12%. Chênh lệch này đã mở rộng từ 7.8% vào tháng 6.2015, thời điểm Trung Quốc bị tấn công tiền tệ và chứng khoán với sự sụp đổ của chỉ số Shanghai Index. Điều đáng nói, sự chênh lệch này là dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng tài chính như đã từng xảy ra với Thái Lan và Hàn Quốc vào năm 1997-1998. Chênh lệch giữa M2 và tín dụng của Thái Land đạt đỉnh 19.5% vào năm 1994 và tiếp tục duy trì tình trạng chênh lệch cho đến khi bị tấn công vào năm 1998. Trong khi đó, Hàn Quốc từng đạt đỉnh chênh lệch vào tháng 3.1998 tại mức 13% trước khi bị khủng hoảng. Trong cuộc khủng hoảng 2006-2007, mức chênh lệch này cũng xuất hiện ở Hàn Quốc.
Việc tăng trưởng tín dụng cao hơn bất thường so với tăng trưởng cung tiền là điển hình của một dạng bong bóng tài chính. Vì lúc này, ngân hàng trung ương cố gắng bơm tiền để thúc đẩy nền kinh tế nhưng dòng tiền lại không được nền kinh tế hấp thụ nên lại chảy ngược vào các thị trường chứng khoán tạo ra bong bóng. Sự sụp đổ của TTCK Trung Quốc vào tháng 6.2015 là một minh chứng.
Hình 4: Chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và M2 của Trung Quốc cho đến tháng 3.2016


Hình 5: Chênh lệch giữa tín dụng và M2 của Thái Lan (trái) và Hàn Quốc (Phải) trước cuộc khủng hoảng 1997-1998



Sau giai đoạn bong bóng, tăng trưởng M2 và tín dụng của Trung Quốc đều sụt giảm mạnh. Đến tháng 10.2016, tăng trưởng M2 của Trung Quố chỉ còn 11%, thấp hơn so với mục tiêu 13%. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng cũng giảm nhưng không nhiều. Thậm chí, trong quý 3.2016, Trung Quốc phải thực hiện nới lỏng các điều kiện tín dụng để tạo động lực tăng trưởng nợ vay trở lại nhằm hỗ trợ cho nền kinh tế. Theo số liệu đến tháng 9.2016, tổng tài trợ xã hội (TSF-Total Social Financing), một thước đo tín dụng rộng nhất của Trung Quốc đã tăng thêm 1,720 tỷ NDT lên mức 151,510 tỷ NDT, tương ứng với tăng 12.5% so với đầu năm. Theo Reuters, việc tăng trưởng nợ vay đến từ việc hoán đổi nợ địa phương, tức đảo nợ.[2]

Do đó, IMF vào tháng 10.2016 đã cảnh báo khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính ngân hàng ở Trung Quốc[3]bởi những lo ngại về nợ xấu từ sản phẩm WMP. Trước đó, vào tháng 9.2016, Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) lo ngại chênh lệch tín dụng (credit gap) tỷ số tín dụng/GDP so với xu thế dài hạn đã vượt mức 30%vào quý 1.2016, trong khi tỷ lệ 10% đã cảnh báo rủi ro khủng hoảng.



Hình 6: Chênh lệch tín dụng của Trung Quốc tăng đến mức nguy hiểm

Cảnh báo của IMF xuất phát từ việc nợ doanh nghiệp của Trung Quốc đã lên đến 169% GDP và nợ của lĩnh vực tư nhân đã lên đến 200% GDP và tạo ra rủi ro nợ xấu cho lĩnh vực ngân hàng. Con số này đã tương ứng với cuộc sụp đổ của Nhật Bản vào những năm 1990 và khủng hoảng Đông Á 1998, khủng hoảng nợ dưới chuẩn Mỹ 2007.
Hình 7: Nợ tư nhân/GDP của Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục.

Biến động của đồng NDT đang khiến Việt Nam phải chịu tác động trực tiếp. Tháng 8.2015, Trung Quốc phá giá đồng NDT sau khi bong bóng chứng khoán sụp đổ khiến VND phải phá giá gần 3%. Điều này là do Trung Quốc là đối tượng cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam ở nhiều lĩnh vực xuất khẩu chủ lực như dệt may, giày da, máy vi tính và linh kiện điện tử.  Vì vậy, việc đồng NDT mất giá 6% so với đồng USD đang gây ra e ngại kịch bản phá giá VND tái diễn như năm 2015.

Chính sách tiền tệ của FED và chính sách tài khóa của Donald Trump đang gây sức ép lên tỷ giá của VND.

Đồ thị sau cho thấy, tỷ giá trung tâm của Việt Nam chạy sát với chỉ số USD Index. Do đó không hề ngạc nhiên tại sao cơn sốt tỷ giá của Việt Nam trong tháng 11 trở nên mạnh hơn sau bầu cử Tổng Thống Mỹ, một phần cũng vì nó làm tăng tốc sự mất giá của đồng NDT. Với triển vọng FED sớm tăng lãi suất sau khi Tổng Thống Donald Trump đắc cử (xác suất 90% sẽ tăng vào tháng 12 theo dữ liệu của CME) và phát biểu trong phiên điều trần của chủ tịch Yellen trong phiên ngày 18.11.2016 là “sớm tăng lãi suất”, khả năng VND còn chịu áp lực mất giá trong thời gian tới. 
Hình 8- Mối quan hệ giữa chỉ số USD Index và tỷ giá trung tâm VND/USD

Sự ổn định của tỷ giá là điều Việt Nam mong muốn, tuy nhiên bài toàn điều hành chính sách tiền tệ trở nên khó khăn trong bối cảnh lạm phát trở lại. Chỉ số CPI đến tháng 10 đã tăng 4.05% so với cùng kỳ và tăng 3.97% so với tháng 12.2015. Với xu hướng thường tăng vào cuối năm, lạm phát hoàn toàn có khả năng chạm mục tiêu 5% đề ra vào đầu năm. Sự trở lại của lạm phát không phải là vấn đề cục bộ của Việt Nam là đang là xu thế của thế giới. Ở Trung Quốc và Mỹ, lạm phát hồi phục mạnh từ đáy tháng 6 khi Trung Quốc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm thúc đẩy hoạt động vay trong khi lạm phát ở Mỹ tăng do các khoản chi phí y tế tăng. Sự hồi phục của giá dầu và một số loại giá hàng hóa khác do triển vọng OPEC cắt giảm sản lượng dầu đáng kéo lạm phát tăng trở lại.

Kỳ vọng lạm phát trên toàn cầu tăng cao hơn khi chính sách tài khóa mở rộng của Donald Trump vào năm 2017 có thể tạo ra lạm phát lớn hơn. Trong khi đó, Việt Nam là một quốc gia có mức độ ảnh hưởng cao của lạm phát nhập khẩu nên những chính sách tài khóa và tiền tệ của Mỹ sẽ tạo ra tác động tiêu cực.
Hình 9: Chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam

Bản thân lạm phát ở Việt Nam có dấu hiệu tăng trong các tháng cuối năm là ảnh hưởng của chính sách  mở rộng tín dụng trong quý 2.2015 khi tăng trưởng tín dụng cao hơn cả tăng trưởng cung tiền M2. Theo nghiên cứu của IMF (2013), độ trễ của tín dụng lên lạm phát trong khoảng 2-10 quý là lý do tại sao lạm phát nhích trở lại vào năm 2016.
Hình 10: Tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2

Hiện nay, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước đang dần chuyển dịch sang hướng tập trung vào lạm phát như là mốc neo với sự linh hoạt lớn hơn của tỷ giá. Với quỹ dự trữ ngoại hối ở mức 41 tỷ USD, thanh khoản trong hệ thống ngân hàng dư thừa (Ttnh đến hết tháng 10/2016, tăng trưởng tín dụng đạt 11.45%, thấp hơn mức tăng trưởng 13.4% của tổng phương tiện thanh toán (M2) so với cuối năm 2015), Việt Nam hoàn toàn có thể dập tắt con sốt tỷ giá hiện nay. Tuy nhiên, bài toán còn phụ thuộc vào mức độ đánh giá rủi ro của NHNN vào các biến số bên ngoài như khả năng tăng giá cao hơn của đồng USD và mức độ đồng NDT bị tấn công tiền tệ. Sự tăng giá mạnh hơn của đồng USD, đồng nghĩa kịch bản đồng NDT bị tấn công cao hơn và đe dọa nhiều hơn đến sự phá giá của VND. Nếu NHNN chưa nhìn thấy các rủi ro này là quá lớn trong ngắn hạn, khả năng sẽ cho phép VND phản ứng linh hoạt hơn bằng cách giảm giá theo kỳ vọng của thị trường. Một số dự báo đang hướng tới khả năng VND/USD sẽ chạm mức 22,700. Ít nhất, khả năng mất giá của VND sẽ còn kéo dài đến cuộc họp chính sách tiền tệ của FED nhằm tránh rủi ro tỷ giá phải tăng shock nếu như FED thực sự tăng lãi suất.

Nhưng nên nhớ, sự mất giá của VND đe dọa đến khả năng ổn định lạm phát của Việt Nam. Theo một nghiên cứu của Rina Bhattacharya thuộc IMF (2013) về “sự năng động của lạm phát và cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam và các quốc gia mới nổi ở Châu Á” cho thấy, trong ngắn hạn, yếu tố chính lái lạm phát của Việt Nam là tỷ giá. 1% phá giá của VND có thể làm tăng 0.33% lạm phát ở Việt Nam.

Trương Minh Huy

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét