Thế
giới đang định hình hệ thống tiền tệ mới?
Trong suốt hơn 200 năm
qua, hệ thống tiền tệ toàn cầu đã có những biến động rất mạnh với sự thay đổi
trong vai trò của vàng[1].
Kéo theo đó là sự ra đời của các ngân hàng trung ương và thay đổi trong cơ chế
tỷ giá toàn cầu.
Theo James Rickards,
tác giả của cuốn sách “Currency war: Making the next of Glogal Crisis”, hệ thống
bản vị vàng ra đời từ năm 1821 đã tạo ra một thời kỳ ổn định giá cả lâu dài, tạo
tiền đề cho công nghiệp hóa và bước đầu của toàn cầu hóa. Tỷ lệ lạm phát trung
bình hàng năm từ 1880-1914 là 0.1% rất thấp so với giai đoạn 1946-2003 là 4.1%.
Nhưng thế chiến thế giới
đã làm thay đổi vai trò của vàng. Khi Thế Chiến lần thứ 1 xảy ra vào năm 1914,
nước Anh phải từ bỏ hệ thống bản vị vàng nhằm phát hành tiền giấy tài trợ cho
chiến tranh. Tương tự, mặc dù hệ thống bản vị vàng tạm được khôi phục giữa hai
cuộc thế chiến nhưng đến 1931-1936, ba cường quốc lớn là Anh, Mỹ và Pháp chính
thức phá bỏ bản vị vàng.
Năm 1944, hệ thống bản
vị vàng được khôi phục sau nổ lực xây dựng một hệ thống tiền tệ mới cho thời kỳ
hậu thế chiến thứ II, gọi là hệ thống tiền tệ Bretton Woods. Theo đó, đồng USD
được gắn cố định vào vàng với tỷ lệ 35 USD/oz. Đồng USD trở thành đồng tiền dự
trữ toàn cầu và các quốc gia khác neo đồng tiền của mình vào USD như một hình
thức bảo đảm bằng vàng. Sự thâm hụt ngân sách của Mỹ dẫn đến sự kiện Tổng Thống
Nixon phải chấm dứt bản vị vàng vào năm 1971 và chính thức vào tháng 3.1973. Hệ
thống bản vị vàng chính thức chấm dứt và thế giới chuyển sang hệ thống tiền tệ
định danh (fiat money). Tương ứng với hệ thống tiền tệ mới, Châu Âu cho ra đời
cơ chế tỷ giá thả nổi ERM vào những năm 1970.
Cục diện cơ chế tỷ giá toàn
cầu sau năm 1970 trở thành cơ chế tỷ giá linh hoạt thả nổi ở Châu Âu và Mỹ.
Trong khi đó, các nước đang phát triển lại neo đồng tiền của mình vào đồng USD.
Sau khi cởi trói khỏi sự
kiểm soát của vàng, các quốc gia trên thế giới ồ ạt phát hành tiền giấy. Vàng
được coi là “di tích dã man” như nhà kinh tế học lừng danh Keynes đã gọi. Khi
thanh khoản tràn ngập, cơ hội đầu tư đến khắp mọi nơi và điều này góp phần làm
kinh tế tăng trưởng sau thế chiến thứ II. Thế nhưng, sự phát triển của hệ thống
tiền tệ định danh cũng tạo ra nhiều sóng gió cho kinh tế toàn cầu. Lạm phát
tăng vọt do nhiều quốc gia phát hành tiền quá mức dẫn đến sự bùng nổ của giá
vàng, từ mức 256 USD/oz vào năm 1999 tăng lên 1,923 USD/oz vào tháng 9.2011. Cuộc
khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2008 có thể đã không diễn ra nếu Fed giữ ổn định giá
trị đồng USD.
Ngày nay, vai trò của
vàng là đề tài tranh luận nóng bỏng trong giới học thuật sau đổ vỡ của hệ thống
tài chính và kinh tế toàn cầu từ năm 2008. Có ý kiến đề xuất quay lại bản vị
vàng nhưng phía ngược lại cho rằng, đó là “ý tưởng tồi tệ nhất”. Tôi không đi
sâu vào bình luận những quan điểm này. Thực tế khách quan diễn ra sinh động hơn
những gì được viết trên lý thuyết. Sự tranh luận gay gắt của giới học thuật về
vàng cho thấy vai trò của vàng đang dần thay đổi. Tờ Telegraph[2] của
Anh cho rằng, thế giới đang từng bước tiến đến bản vị vàng phổ biến (de factor Gold Standard) mà không có bất cứ
cuộc họp nào của G20 để thông báo ý tưởng hoặc hưởng ứng cho kế hoạch này. Theo
điều tra của GFMS Gold Survey, các ngân hàng trung ương toàn cầu đã tăng ròng
536 tấn vàng trong năm 2012 khi nổ lực đa dạng hóa hệ thống dự trữ ngoại hối chỉ
gồm các đồng tiền giấy. Đây là mức tăng lớn nhất trong gần 50 năm qua.
Liệu một hệ thống tiền
tệ mới, chẳng hạn như bản vị vàng, có ra đời nhằm khắc phục khuyết điểm của hệ
thống tiền giấy?
Nhìn vào sự thay đổi của
hệ thống tiền tệ toàn cầu trong thế kỷ 20, những nhà phân tích theo trường phái
kinh tế-chiêm tinh (astro-eco) đang dự báo sẽ có những biến đổi lớn trong hệ thống
tiền tệ toàn cầu. Quan sát chuyển dịch của Diêm Vương Tinh qua các cung Tứ Xung
(Cardinal), gồm bốn cung Bạch Dương, Con Cua,Thiên Bình, Ma Kết cho thấy trùng
với những thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ toàn cầu. Khi chế độ bản vị vàng
bị xóa bỏ bởi thế Chiến thứ nhất vào năm 1914 và sau đó là năm 1936, Diêm Vương
Tinh đang nằm ở cung Con Cua. Tiếp đó, khi Tổng Thống Nixon chính thức khai tử
vàng lần thứ hai vào năm 1973, Diêm Vương Tinh nằm ở cung Thiên Bình. Nếu nhìn
lại năm 1821, khi hệ thống bản vị vàng ra đời ở Anh Quốc và các nước thuộc địa,
Diêm Vương Tinh chỉ còn cách 30 là nhập cung Bạch Dương. Điều này
cho thấy, mỗi lần Diêm Vương Tinh di chuyển qua các cung Tứ Xung, hệ thống tiền
tệ sẽ có những thay đổi lớn. Điều này thể hiện đúng bản chất của Diêm Vương
Tinh là hành tinh của sự cải cách.
Hiện nay, Diêm Vương
Tinh bắt đầu ngự trị tại cung Ma Kết từ năm 2008 cho đến tận năm 2023-2024. Liệu
một sự cải biến trong hệ thống tiền tệ toàn cầu từ nay cho đến những năm
2023-2024?
Dù không ai có thể chắc
chắn khi nói về tương lai của hệ thống tiền tệ toàn cầu nhưng bóng dáng của một
sự thay đổi lớn xuất hiện khi cuộc khủng hoảng dưới chuẩn diễn ra ở Mỹ năm 2008
và kéo theo đó là cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu từ năm 2010. Thế giới bắt
đầu cảm thấy lo lắng về tương lai của nền kinh tế dưới đóng nợ công khổng lồ được
tích lũy dễ dàng bằng cách phát hành tiền giấy.
Khả năng của sự cải biến lớn dần khi cuộc
chiến tranh tiền tệ đang bước vào giai đoạn bước ngoặt và lan rộng như những
năm 1930. Tuyên bố in tiền không giới hạn của Nhật vào cuối năm 2012 đang lôi
cuốn các quốc gia khác tham gia phá giá đồng nội tệ. Venuezela tuyên bố phá giá
1/3 giá trị đồng nội tệ vào tháng 2.2013. Ngân hàng trung ương New Zealand cho
biết đang xem xét can thiệp vào thị trường tiền tệ để hạn chế đà tăng của đồng
Kiwi. Brazil đang cố gắng hạ giá đồng tiền bằng cách hạn chế dòng vốn vào. Tháng
4.2013, nước Anh dấy lên dư luận phải phá giá mạnh đồng Bảng, có thể là 1/3 giá
trị, nhằm cứu nền kinh tế[3].
James Rickards cho rằng, sự thừa thãi của đồng tiền giấy sẽ khiến cho niềm tin
của dân chúng bị xói mòn. “Không có người
thua hay kẻ thắng trong cuộc chiến tranh tiền tệ. Tất cả các quốc gia đều bại.
Chỉ một người thắng duy nhất-Vàng”
Có
một thực tế cần biết rằng, hệ thống bản vị vàng không hề là xiềng xích cho sự
thịnh vượng kinh tế để cần phải “cởi trói” như nhiều người nghĩ. Lịch sử kinh tế
tư bản đã cho thấy “Thời đại vàng (Gold Age) của chủ nghĩa tư bản ” lần 1 và lần
2 đều xảy ra dưới thời kỳ bản vị vàng là 1880-1914 và 1945-1973[4],
chứ không phải dưới hệ thống tiền tệ định danh.
Vàng là tiền hay là đơn
thuần chỉ là một loại hàng hóa? Đó là nội dung cốt lõi trong cuộc chơi của
vàng. Nếu vàng là tiền, nó thực sự là kẻ thù không đội trời chung với các ngân
hàng trung ương vì chính sách tiền tệ giá rẻ khó thực thi, và các chính phủ sẽ
khó phát hành tiền giấy. Việc các ngân hàng trung ương trên thế giới tăng cường
mua vàng trong thời gian gần đây cho thấy, vàng đang trở lại vai trò của nó, một
phương tiện tiền tệ trong nền kinh tế.
“Không
có lý do gì để liên thông thị trường vàng”
Diễn biến của thị trường
vàng tại Việt Nam trong thời gian vừa qua nhận được nhiều sự chú ý của dư luận.
Chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới liên tục đứng ở mức cao, có thời
điểm lên đến 5-6 triệu đồng/lượng, khiến người dân băn khoăn trước quyết định
mua bán vàng.
Sự lúng túng kéo dài vì
những tuyên bố “tiền hậu bất nhất” trong việc quản lý thị trường vàng. Vào cuối
năm 2011, khi chênh lệch thị trường vàng chỉ ở mức 2 triệu đồng/lượng, Thống Đốc
Nguyễn Văn Bình đưa ra mục tiêu giảm chênh lệch về mức 400,000 đồng/lượng và
cho rằng “giá vàng trên 400,000 đồng/lượng là có hiện tượng đầu cơ.” Từ đây,
con số 400,000 đồng trở thành mặc định để người dân chờ đợi những chính sách
bình ổn giá vàng, đặc biệt là giảm chênh lệch giá vàng. Tuy nhiên, tại kỳ họp
thứ 4 Quốc Hội khóa XIII vào tháng 11.2012, Thống Đốc Nguyễn Văn Bình đột ngột
thay đổi chính sách bằng tuyên bố “Giá vàng trong nước chênh lệch với thế giới
không gây ảnh hướng tới vĩ mô. Vì thế, không có lý do gì để bình ổn thị trường
vàng[5]”
và “Không có việc liên thông với thị trường nước ngoài”. Đến tháng 5.2013, thậm
chí Thống Đốc còn cho rằng giá vàng trong nước cao hơn thế giới là “có lợi cho
dân”.
Dù những tuyên bố điều
hành của Thống Đốc có vẻ như tiền hậu, bất nhất nhưng nếu nhìn lại chính sách
điều hành thị trường vàng của Việt Nam từ năm 2009 đến nay lại là một chuỗi sự
kiện “thống nhất”. Bắt đầu từ cuối năm 2009, khi giá vàng trong nước nhảy múa
theo thế giới tạo nên những cơn sốt vàng, NHNN đã chấm dứt sự hoạt động của các
sàn vàng. Sự chấm dứt của các sàn vàng được người dân chờ đợi sẽ có một sàn
vàng quốc gia nhằm minh bạch hoạt động giao dịch vàng và có sự quản lý chặt chẽ
của nhà nước.
Việc lập sàn giao dịch
vàng ở quy mô quốc gia chẳng phải là việc khó vì trên thế giới, nhiều quốc gia
cũng thành lập sàn vàng. Những quốc gia mà người dân tiêu thụ nhiều vàng như Ấn
Độ, Trung Quốc cũng có sàn giao dịch vàng. Việt Nam có sẵn kinh nghiệm trong
thành lập và quản lý thị trường chứng khoán nên việc thành lập sàn giao dịch
vàng chỉ là chuyện muốn hay không muốn. Tuy nhiên, NHNN dường như “quên lãng”
chuyện thành lập sàn giao dịch vàng mặc dù có nhiều ý kiến đề xuất.
Thay vào đó là một hướng
đi cho thấy, NHNN sẽ nắm độc quyền thị trường vàng. Năm 2010 loại bỏ các ngân
hàng thương mại ra khỏi thị trường vàng bằng các biện pháp: cấm kinh doanh vàng
tài khoản nước ngoài của các ngân hàng thương mại; áp dụng chế độ hạn ngạch nhập
khẩu vàng và cấm các ngân hàng thương mại chuyển đổi vàng huy động thành VND để
cho vay. Tháng 2.2011, nghị quyết 11 của chính phủ đã chuyển quyền quản lý hoạt
động sản xuất và kinh doanh, lưu thông vàng miếng sang cho NHNN. Đến tháng
4.2012, sự ra đời của nghị quyết 24 của chính phủ đã khẳng định NHNN độc quyền
trong việc sản xuất miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.
Các NHTM chỉ còn là kênh mua bán trung gian vàng cho NHNN. Một sự kiện quan trọng khác là Thống Đốc Bình chọn SJC làm
thương hiệu vàng quốc gia vào tháng 11.2012.
Việc NHNN kiểm soát chặt
thị trường vàng đúng là có lợi cho ngân sách nhưng không phải là về giá mà là
khả năng vay nợ. Sự tồn tại của thị trường vàng sẽ hút mất một phần nguồn vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế và gây khó khăn cho chính phủ trong việc thu hút nguồn
vốn. Thực sự, lượng vàng trong dân tại
Việt Nam có thể lên đến 1,000 tấn[6]
cho thấy người dân có thói quen nắm giữ vàng nhằm phòng vệ trước sự mất giá của
đồng tiền. Trong giai đoạn năm 2009 và 2010, số vốn mà chính phủ huy động được
thông qua phát hành trái phiếu chỉ khoảng 65,000 tỷ đồng. Nhiều phiên đấu thầu
rơi vào ế ẩm vì người dân đang chạy theo cơn số vàng, đô la. Từ khi biện pháp
kiểm soát thị trường vàng được thực hiện mạnh tay trong năm 2012, lượng vốn huy
động của chính phủ tăng mạnh hơn. Phải
chăng liệu chính phủ chần chừ trong việc lập sàn vàng quốc gia là do e ngại
kênh đầu tư vàng sẽ gây khó khăn trong việc phát hành trái phiếu chính phủ?
Thực tế, người dân đang trở nên khó khăn hơn trong việc giao dịch vàng khi giảm
số lượng địa điểm giao dịch vàng từ 12,000 điểm xuống còn 2,500 điểm (do 22
ngân hàng và 16 doanh nghiệp điều hành). Do đó, mặc dù người dân vẫn được quyền
nắm giữ vàng nhưng lại không đảm bảo được quyền tự do mua bán vàng.
Bảng
1. Huy động vốn trái phiếu chính phủ
đơn vị : tỷ đồng
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013(*)
|
Huy động vốn
|
64,000
|
65,000
|
81,716
|
140,000
|
208,100
|
Nguồn: Thu nhập từ báo chí của tác
giả.
(*) là mục tiêu phát hành trái phiếu
chính phủ cho năm 2013
Cần nhớ, ngân sách nhà
nước đang ở trong thời kỳ khó khăn. Thâm hụt ngân sách tăng cao và ở mức 5%-6%
GDP. Nợ công của chính phủ cũng có thể đang 128 tỷ USD, tương ứng 106% GDP năm
2011 theo số liệu tại Diễn đàn kinh tế mùa xuân tại Nha Trang. Mục tiêu huy động
vốn trái phiếu 2013 gần như gấp 1.5 lần cho thấy chính phủ đang rất muốn vay
càng được nhiều nợ.
Lại nói về chuyện chênh
lệch giá vàng. Thay vì lập sàn giao dịch vàng, NHNN lại tổ chức đấu thầu vàng để
đảm bảo nguồn cung cho thị trường. Tính đến tháng 4.2013, khoảng 12 tấn vàng[7] đã
được bán ra nhưng chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới vẫn không giảm. Nhiều
người kỳ vọng sau ngày 30.6.2013 khi các NHTM thực hiện tất toán xong trạng
thái vàng thì có khả năng làm giảm chênh lệch giá vàng. Để biết được điều này
có xảy ra hay không, chúng ta thử suy nghĩ những vấn đề sau: (1) Liệu NHNN có “dại”
đi ngược lại với xu hướng của các ngân hàng trung ương trên thế giới (đang mua
vàng) là đi bán vàng nếu bản chất của vàng là tiền ? (Tự trả lời nhé bạn đọc) (2)
Quỹ dự trữ ngoại hối có đủ để NHNN mua vàng thế giới và đem ra bình ổn thị trường?
Chắc chắn là không đủ. Nguồn cung vàng cho thị trường có thể vẫn thiếu hụt. Tâm
lý người nắm giữ vàng vẫn sẽ vẫn lo không mua được vàng. (3) Nếu việc tổ chức đấu
thầu bán vàng miềng thực sự liên quan đến tất toán trạng thái vàng của các
NHTM, liệu NHNN có quan tâm đến chênh lệch giá vàng giữa thế giới và trong nước.
NHNN thậm chí còn làm lợi cho quỹ dự trữ ngoại hối nếu bán vàng với mức giá
cao.
[1]
Xem thêm về lịch sử hệ thống tiền
tệ http://gafin.vn/2012090208476560p0c32/lich-su-he-thong-tien-te-the-gioi-ke-tu-nam-1821.htm
[2]
Xem bình luận của Telegraph: http://blogs.telegraph.co.uk/finance/ambroseevans-pritchard/100022332/a-new-gold-standard-is-being-born/
[3]
Anh Quốc được khuyến nghị phá
giá mạnh đồng Bảng: http://www.politics.co.uk/news/2013/04/29/pound-must-be-devalued-by-another-third-to-save-economy
[4]
Xem thêm về tăng trưởng kinh tế
toàn cầu. http://en.wikipedia.org/wiki/Post%E2%80%93World_War_II_economic_expansion
[6] Số liệu vàng trong dân: http://laodong.com.vn/Kinh-doanh/Luong-vang-trong-dan-len-toi-1000-tan/38779.bld
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét